ĐẬP HOOVER: KỲ QUAN KĨ THUẬT THẾ GIỚI

Gần 90 năm sau khi hoàn thành, đập Hoover vẫn được coi là một kỳ quan kỹ thuật của nước Mỹ và thế giới. Con đập được hoàn thành vào năm 1936 sau 5 năm xây dựng.

Dưới đây là một vài thông tin về đập thủy điện Hoover.

  • Vị trí: Sông Colorado, bang Nevada và Arizona, Hoa Kỳ
  • Thời gian xây dựng: 1931-1936
  • Công suất lắp đặt: 2.080 MW
  • Sản lượng điện trung bình năm: 3,3 tỷ Kwh
  • Công nghệ và thiết kế: Đập vòm bê tông trọng lực, thiết kế theo phong cách Art Deco với các chi tiết điêu khắc tinh xảo. Biến nơi đây thành một kì quan kĩ thuật, kiến trúc.
  • Chiều cao đập: 221m
  • Dung tích hồ chứa: 35,2 km³
  • Kỷ lục: Dùng 4,36 triệu m³ bê tông – đủ để xây một con đường xuyên nước Mỹ rộng 16 feet (một feet bằng 30.48cm), con đường này trải dài từ San Francisco ở bờ tây nước Mỹ đến New York ở bờ đông nước Mỹ. Đập Hoover là đập thủy điện lớn nhất thế giới trong 20 năm. Công trình cũng tạo ra hồ Mead, hồ nhân tạo lớn nhất Hoa Kỳ.
  • Công năng: Thủy điện, tưới tiêu, kiểm soát lũ, giao thông, du lịch (hàng năm đón 8-10 triệu khách du lịch)
  • Ngân sách dự án: 49 triệu USD (1931) hay 700 triệu USD (2016)

Đập Hoover chính là một điểm đến khó có thể bỏ qua cho bất kỳ ai yêu thích kĩ thuật, kiến trúc và du lịch. Dù nổi tiếng ở nước Mỹ và trên thế giới đã gần một thế kỷ, nhưng có những thông tin về đập thủy điện Hoover mà không phải ai cũng biết. Chúng ta hãy cùng khám phá 7 thông tin sau:

1. Tên của con đập là một nguồn tranh cãi.
Các nhà khảo sát ban đầu khuyến nghị nên xây đập tại Boulder Canyon, dẫn đến sáng kiến ​​được gọi là Dự án đập Boulder Canyon. Ngay cả khi Black Canyon sau đó được coi là vị trí tốt hơn cho công trình mới, nó vẫn tiếp tục được gọi là Đập Boulder. Tuy nhiên, vào ngày 17 tháng 9 năm 1930, tại một buổi lễ ở Nevada để đánh dấu sự khởi công xây dựng tuyến đường sắt đến địa điểm xây đập, Bộ trưởng Nội vụ Hoa Kỳ Ray Lyman Wilbur đã tuyên bố con đập sẽ được đặt theo tên của tổng thống đương nhiệm, Tổng thống Herbert Hoover, người nhậm chức tổng thống vào năm 1929. Ông Hoover trước khi lên làm tổng thống cũng là một trong những người ủng hộ ý tưởng xây dựng con đập này. Năm 1933, Franklin Roosevelt kế nhiệm Hoover tại Nhà Trắng, và bộ trưởng nội vụ mới, Harold Ickes, không phải là người ủng hộ Hoover, đã tuyên bố công trình này một lần nữa được gọi là Đập Boulder. Vào thời điểm đó, cái tên Herbert Hoover cũng đã mang những liên tưởng tiêu cực đối với một số người Mỹ, những người đổ lỗi cho ông về cuộc Đại suy thoái.

Trong những năm tiếp theo, Đập Hoover và Đập Boulder được sử dụng “thay thế cho nhau, thường phụ thuộc vào khuynh hướng chính trị của người nói”, theo Michael Hiltzik, tác giả của “Colossus: Đập Hoover và quá trình hình thành Thế kỷ Hoa Kỳ”. Cuối cùng, vào tháng 4 năm 1947, Tổng thống Harry Truman đã phê chuẩn một nghị quyết của quốc hội chính thức xác nhận con đập sẽ mang tên Hoover.

2. Một thành phố đã được dựng lên cho những người làm việc trên đập.
Vào đầu những năm 1930, Thành phố Boulder, Nevada, được xây dựng để làm nơi ở cho 5.000 công nhân dự án đập. Trước khi thành phố được xây dựng, nhiều người đàn ông thất nghiệp và gia đình của họ đã tụ tập tại địa điểm xây đập, hy vọng tìm được việc làm trong bối cảnh Đại suy thoái, họ đã sống trong các khu định cư của những người chiếm đất. Thành phố Boulder nằm trên đất do liên bang sở hữu và không có viên chức được bầu. Thành phố được điều hành bởi một nhân viên của Cục khai hoang Hoa Kỳ (cơ quan chịu trách nhiệm về dự án đập), đơn vị có thẩm quyền trục xuất cư dân theo ý muốn. Trong số các quy định của địa phương, rượu và cờ bạc bị cấm. Khách sạn Boulder Dam được xây dựng để đón tiếp các quan chức đến xem việc xây dựng đập; những nhân vật nổi tiếng từ Bette Davis đến Giáo hoàng tương lai Pius XII đã đến thăm vào những năm 1930. Sau gần 30 năm, chính quyền liên bang đã từ bỏ quyền kiểm soát Boulder City, được thành lập vào năm 1960.

3. Đập Hoover tạo ra hồ chứa nước lớn nhất nước Mỹ.
Được hình thành từ việc ngăn sông Colorado, Hồ Mead, hồ chứa nước lớn nhất của quốc gia, bao phủ khoảng 640 kilomet vuông và có khả năng chứa khoảng 35.2 km³ nước. Việc tạo ra Hồ Mead (được đặt theo tên của Elwood Mead, ủy viên của Cục khai hoang Hoa Kỳ khi đập được quy hoạch và xây dựng) đã gây ngập lụt cho cộng đồng cư dân St. Thomas, Nevada, biến nơi này thành một thị trấn ma. Cư dân cuối cùng của thị trấn, được những người tiên phong theo đạo Mormon định cư vào năm 1865, đã chèo thuyền rời khỏi nhà của mình vào năm 1938. Ngày nay, hồ chứa nước cung cấp nước cho các trang trại, doanh nghiệp và hàng triệu người ở Nevada, Arizona, California và Mexico. Hồ Mead cũng là một địa điểm phổ biến để chèo thuyền, câu cá và bơi lội; Khu vui chơi giải trí quốc gia đầu tiên của Hoa Kỳ được thành lập tại đây vào năm 1964.
Ngày nay, do hạn hán mà lưu vực Sông Colorado đã trải qua trong hơn một thập kỷ rưỡi qua, mực nước Hồ Mead đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ khi được lấp đầy lần đầu tiên vào những năm 1930.

Hồ Mead do đập Hoover tạo ra
4. Không có ai bị chôn sống trong bê tông.
Việc xây dựng con đập quá tốn kém đối với một công ty trong thời kỳ Đại suy thoái, vì vậy một nhóm các công ty xây dựng đã liên kết với nhau và sử dụng liên danh thầu gồm sáu công ty, nộp giá thầu chiến thắng là 48,8 triệu đô la cho dự án (vào thời điểm đó, đây là hợp đồng lớn nhất do chính phủ liên bang trao). Tổng cộng có 21.000 người làm việc trên con đập; trung bình 3.500 người mỗi ngày, với con số hàng ngày đạt đỉnh hơn 5.200 người vào tháng 6 năm 1934. Khi nói đến việc tuyển dụng, nhà thầu được cho là ưu tiên cho các cựu chiến binh của Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ và Thế chiến thứ nhất. Theo hợp đồng, nhà thầu bị cấm tuyển dụng “người Mông Cổ” hoặc công nhân Trung Quốc, và trong khi các quan chức chính phủ cam kết giúp đảm bảo người Mỹ gốc Phi được tuyển dụng vào dự án, thực tế số lượng công nhân người Mỹ gốc Phi được thuê lại rất nhỏ. Một số ít người Mỹ bản địa được thuê làm thợ đo độ cao, chịu trách nhiệm loại bỏ đá rời khỏi các bức vách trong hẻm núi bằng búa khoan và thuốc nổ để chuẩn bị cho việc xây dựng đập. Khi làm việc những người Mỹ bản địa bị treo bằng dây thừng trên vách đá.
Xây dựng đập là công việc khó khăn, nguy hiểm, trong đó những người đàn ông được trả lương theo giờ từ 50 xu đến 1,25 đô la. Theo chính thức, dự án đã có 96 trường hợp tử vong liên quan đến xây dựng-do các nguyên nhân như đá rơi và va chạm với thiết bị hạng nặng—nhưng một số nguồn tin cho rằng con số này có thể cao hơn. Theo Cục khai hoang, khoảng 4,3 triệu mét khối bê tông đã được sử dụng để xây đập, nhà máy điện và các công trình phụ trợ, đủ bê tông để trải một con đường rộng 16 feet, dày 8 inch (1 inch băng 2.54cm) từ San Francisco đến New York. Trái ngược với huyền thoại phổ biến, không có công nhân nào bị chôn sống trong bê tông của đập khi nó được đổ.

Đập thủy điện Hoover 1

5. Đây từng là con đập cao nhất Trái đất.
Cao 726,4 feet, Đập Hoover là con đập cao nhất thế giới khi được xây dựng vào những năm 1930. Ngày nay, đây là con đập cao thứ hai ở Hoa Kỳ, sau khi bị Đập Oroville cao 770 feet ở Bắc California vượt qua vào năm 1968. Con đập cao nhất thế giới là Đập Jinping-I cao 1.001 feet ở Lương Sơn, Tứ Xuyên, Trung Quốc, đi vào hoạt động năm 2013.
Nhà máy điện của Đập Hoover là nhà máy thủy điện lớn nhất thế giới từ năm 1939 đến năm 1949. Nhà máy có công suất lắp đặt là 2.080 megawatt (MW) và hiện đang tạo ra khoảng 3.3-4.0 tỷ kilowatt-giờ (kWh) điện thủy điện hàng năm, phục vụ cho các hộ gia đình và doanh nghiệp ở Nevada, Arizona và California. Đập Tam Hiệp của Trung Quốc, bắt đầu phát điện vào năm 2003 và đi vào hoạt động hoàn toàn sau chín năm, được coi là đập thủy điện lớn nhất hành tinh, với công suất 22.500 megawatt. Năm 2014, Tam Hiệp đã phá kỷ lục toàn cầu về sản lượng thủy điện hàng năm, tạo ra 98,8 tỷ KWh điện. Nhà sản xuất thủy điện lớn nhất tại Hoa Kỳ, Đập Grand Coulee của Tiểu bang Washington, hoàn thành vào năm 1941 (một nhà máy điện thứ ba được bổ sung vào năm 1974), có công suất 6.809 MW và tạo ra khoảng 21 tỷ kWh điện mỗi năm.
6. Trong Thế chiến II, con đập là mục tiêu của một âm mưu đánh bom của Đức.
Vào tháng 11 năm 1939, khi Thế chiến II đang diễn ra, các quan chức Hoa Kỳ phát hiện ra một âm mưu bị cáo buộc của các điệp viên Đức nhằm đánh bom Đập Hoover, bằng cách đặt bom tại các tháp thu nước để phá hoại nguồn cung cấp điện cho ngành sản xuất hàng không của Nam California. Sau khi chính quyền Hoa Kỳ biết về âm mưu này, các tàu thuyền tư nhân đã bị cấm vào Black Canyon, các quy định chặt chẽ hơn đối với nhân viên đập và du khách đã được ban hành và nhiều biện pháp an ninh khác như rào chắn vật lý và tăng cường chiếu sáng được đưa ra. Sau cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng vào tháng 12 năm 1941, con đập bị đóng cửa với du khách trong suốt thời gian còn lại của cuộc chiến. Con đập có lực lượng cảnh sát riêng nhưng quân đội đã cung cấp một số nhân sự để giúp bảo vệ con đập. Ngoài ra, các quan chức chính phủ đã điều tra nhiều khả năng khác nhau để bảo vệ con đập khỏi một cuộc tấn công trên không, chẳng hạn như màn khói quy mô lớn hoặc xây dựng một con đập mồi, nhưng không có phương án nào trong số này được sử dụng. Đập Hoover mở cửa trở lại cho công chúng vào tháng 9 năm 1945.
7. Cây cầu cao thứ hai của Hoa Kỳ hiện đang chuyển hướng giao thông từ đỉnh đập.
Từ những năm 1930, Tuyến đường 93 của Hoa Kỳ chạy ngay dọc theo đỉnh đập; tuy nhiên, đường cao tốc hai làn xe này rất nguy hiểm và ngày càng tắc nghẽn theo thời gian. Để khắc phục những vấn đề này, người ta đã bắt đầu xây dựng một cây cầu bắc qua đập vào năm 2005. Hoàn thành năm năm sau đó, Cầu tưởng niệm Mike O’Callaghan-Pat Tillman dài 1.905 feet và cao gần 900 feet so với Sông Colorado, trở thành cây cầu vòm bê tông một nhịp dài nhất ở Tây Bán cầu cũng như là cây cầu cao thứ hai ở Hoa Kỳ. Công trình có chi phí 114 triệu đô la này được đặt theo tên của Donal Neil “Mike” O’Callaghan, một cựu chiến binh Mỹ trong Chiến tranh Triều Tiên và là thống đốc Nevada trong hai nhiệm kỳ vào những năm 1970, và Pat Tillman, người đã từ bỏ sự nghiệp bóng bầu dục chuyên nghiệp với Arizona Cardinals để nhập ngũ vào năm 2002; ông đã mất tại Afghanistan vào năm 2004.

Đập thủy điện Hoover 2

Đập thủy điện Hoover có thể coi là một trong những biểu tượng tự hào của người Mỹ, nhờ sự hùng vĩ vượt trội so với các công trình nhân tạo thông thường và lợi ích nó mang lại cho nước Mỹ. Xây dựng một con đập có quy mô và kiến trúc như vậy trong điều kiện thế kỷ 21 hiện đại về công nghệ, giao thông vẫn là một thách thức lớn với nhiều quốc gia lớn trên thế giới hiện đại. Vậy mà cách đây gần 1 thế kỷ, trong điều kiện kĩ thuật và giao thông thua xa hiện tại, vậy mà người Mỹ vẫn có thể hoàn thành đập Hoover, chỉ có thể nói đó là một kỳ tích phi thường.

Tham khảo thêm:

DỰ ÁN ĐẦU TƯ CÔNG ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM

https://www.usbr.gov/lc/hooverdam/